Dưới ánh trăng mờ nhạt, nhìn khuôn mặt của A Ngưu càng trở lên đáng sợ. Gió thổi lùa qua, làm tóc mái buông xõa che gần kín khuôn mặt, chỉ hở ra một ánh nhìn sắc lạnh như dao.
-Mày giết huynh đệ của mày thiệt hả A Ngưu?
Thằng Hào lên tiếng, miệng nó há hốc từ nãy đến giờ vừa mới khép lại được, nhìn A Ngưu đầy kinh hãi.
A Ngưu nhếch môi cười, đá vào người Kpang kiểm tra xem anh có phản ứng gì không? Thấy Kpang nằm im bất động, hơi thở dường như bị đứt quãng, hắn mới cúi xuống lôi Kpang vào gốc nhãn, phủ một lớp lá cây khô đắp kín người, . Xong việc, hắn phủi tay mới yên tâm quay người bỏ đi.
A Ngưu vừa đi vừa trả lời câu hỏi của thằng Hào khi nãy.
-Nhổ đi được một cái gai trong mắt, chẳng phải là chuyện đáng mừng hay sao?
Thằng Hào vọt lên sánh bước ngang hàng cùng A Ngưu, nó vẫn còn nhiều câu muốn hỏi, nhưng định nói ra thì bị A Ngưu giơ tay ngăn cản.
-Mày về đi, tao còn phải giải quyết cho xong một người.
-Ai? -Hào hỏi!
A Ngưu hừ một tiếng, liếc đôi mắt gian tà nhìn thằng Hào, lạnh lùng nói:” Là sư phụ tao!”
Thằng Hào trố mắt ngạc nhiên, lắp bắp hỏi:” Mày nói thật chứ? Ông ta là sư phụ, là người nuôi mày khôn lớn. Chẳng nhẽ mày lại máu lạnh đến vậy?”
-Là người nuôi tao lớn thì sao? Là sư phụ thì đã sao? Cũng chỉ là thêm cái bát, thêm đôi đũa. Ông ta có cho tao được một cuốc sống sung túc như bao người khác hay không? Năm đó nếu ông ta không dẫn tao rời khỏi bản, thì biết đâu cuộc đời tao đã khác đi rồi!
Thằng Hào nghe xong chẹp miệng:
-Ờ thì mày nói cũng đúng. Mà thôi, đây là chuyện riêng của mày, thứ lỗi tao không tiện xen vào. Bây giờ tao về trước, hẹn gặp mày dưới thị trấn nhé.
A Ngưu gật đầu, anh ta đứng trông theo cho tới khi thấy bóng của thằng Hào khuất sau màn đêm đen, mới quay lưng đi tiếp. Một mình đi giữa cánh đồi hoang vu gió lộng, A Ngưu hồi tưởng lại tất cả những gì mình gắn bó với nơi này, và cả những ký ức năm tháng ở bên cạnh sư phụ. Song những điều đẹp đẽ đó chỉ thoáng qua trong suy nghĩ, rồi nhanh chóng biến mất. A Ngưu rảo bước nhanh hơn, chốc chốc ánh mắt lại quét nhìn bốn phía, mỗi khi xung quanh phát ra tiếng động.
Căn nhà nhỏ ọp ẹp dần hiện ra trước mắt. Bên trong, ánh đèn đỏ quạch hắt ra từ phía ô cửa sổ, nó xa mờ đến nỗi A Ngưu không thể nhìn rõ những thứ bên trong. Một màn đêm đặc quánh bao phủ xuống ngôi nhà, ánh đèn lúc xa lúc gần tạo cho A Ngưu một loại cảm giác kỳ lạ, cảm tưởng mình đang lạc vào cõi hư vô.
Thật thật giả giả, như người trong mộng.
A Ngưu tự trấn an, lảm nhảm trong miệng:” Phải rồi! Đây là mê trận do sư phụ đặt ra. Xém chút nữa mình quên.”
A Ngưu nhớ có lần thấy sư phụ làm bùa thuốc mê bằng rất nhiều loại thảo được. Lá sen, củ bình vôi, lá vông nem, nụ tam thất… còn vài vị nữa mà mình không nhớ tên. Nhưng vị chính để tạo ra một loại hương mê khiến đối phương phải gục ngã trong trong vài giây ngắn ngủi, đó vẫn chính là câu chú của sư phụ, mỗi khi thầy thổi hồn vào. Song trận pháp mê trận này, sư phụ lại chỉ làm cho đầu óc của đối phương bấn loạn, sinh ra ảo ảnh, đầu óc u mê không tìm thấy lối vào. Đây chính là cách sư phụ ngăn chặn những kẻ trộm cắp.
Ngôi nhà này ban ngày nhìn vào trông nó rất bình thường như bao ngôi nhà khác trông thôn. Chỉ là bị hàng cây phía trước che khuất hoàn toàn. Nếu không tới gần, rất khó phát hiện ra sự tồn tại của nó.
Về tối, chỉ có ánh đèn leo lét hắt ra. Những người ngoài khi bước chân vào mảnh đất, nếu đi theo hướng ánh đèn để muốn tiếp cận ngôi nhà, họ sẽ chỉ loanh quanh phía ngoài cổng, hoặc đi xung quanh ngôi nhà, có đi cách nào cũng không thể lại gần. Đó lúc họ đang nằm trong mê trận.
A Ngưu định nhấc bàn chân tiến sâu vào bên trong, song sực nhớ vẫn còn một pháp trận cần loại bỏ. Nói chính xác hơn, pháp trận này sư phụ bố trí chính là nhằm ngăn cản đám yêu ma quỷ quái. Song nếu người bình thường không biết cách phá trận liều mạng xông vào, nó cũng dễ dàng tước đi mạng sống của họ.
Anh ta thụt chân lại, lầm rầm trong miệng. Quan sát thật kỹ dưới mặt đất, tập trung vào trí não, lẩm nhẩm trong miệng:” Một dừng hai điểm ba vượt bốn xoay”, là bốn khẩu quyết dùng để phá trận. Anh ta thầm mong sư phụ vẫn chưa đổi khẩu quyết. Quả đúng như ước nguyện của A Ngưu, bốn câu” Một dừng hai điểm ba vượt bốn xoay” vẫn được sư phụ giữ nguyên, không hề có sự thay đổi.
Mỗi một khẩu quyết đều ăn khớp với một cơ quan trên mặt đất. Sau khi A Ngưu bước vào một bước, cần dừng lại một chút, cũng chính là để giữ thăng bằng và ổn định lại cơ thể, rồi mới bước tiếp bước thứ hai. Nếu không dừng lại mà bước luôn, thì bước thứ hai chưa kịp chạm đất, đã ngã nhào sang một bên. Bước thứ hai không thể giẫm cả bàn chân xuống, mà chỉ điểm khẽ xuống mặt đất để vượt qua, đó chính là “ Hai Điểm”, nếu không, phần cổ chân sẽ bị vặn mạnh ra phía ngoài, trẹo khớp chân gãy xương là chuyện khó tránh. Bước thứ ba cần sải rộng chân mà bước qua, để vượt qua những cái hố vô hình nằm sâu dưới mặt đất, nếu không, phần chân sẽ bị trượt thẳng về phía trước, gây thương tổn dây chằng. Bước thứ tư cần hơi xoay người sang bên trái một chút, nếu vẫn bước thẳng như trước, phía trước chắc chắn sẽ bị vật nặng đập vào khiến cho sứt đầu mẻ trán. Người ngoại đạo không biết, khi bước chân vào đây sẽ gọi đây là mảnh đất âm hồn, vì những cạm bẫy do thầy Chu đặt ra, chỉ có người trong đạo mới hiểu rõ, mà cũng có khi họ không thấy, bởi đạo hạnh học chưa đến.
Sau đêm gã quỷ xông vào định bắt A Ngưu đi, thì thầy Chu phải bố trí lại một chút, song vẫn giữ nguyên bố trận và khẩu quyết, bởi thầy sợ A Ngưu không biết cách vào nhà.
Hắn nghĩ trong đầu:” Sư phụ! Thì ra người vẫn không thay đổi khẩu quyết, nếu vậy thì thầy đừng trách con.”
A Ngưu mỉm cười đứng trước sân, thở phào nhẹ nhõm. Anh ta như trút được ngàn gánh nặng đang đè nén trên đôi vai, và cả trong trí não.
Hắn lấy chai dầu hoả mình thủ sẵn trong chiếc ba lô, không ngần ngại hay một chút do dự. Hắn đi xung quanh ngôi nhà, rẩy hết chai dầu hoả lên những vách tường và cả những ô cửa sổ, rồi nhìn chăm chăm vào phía buồng của sư phụ, nhếch môi cười.
-Sư phụ! Người sống vậy là quá đủ rồi. Từ bây giờ sẽ là thế hệ của A Ngưu này tiếp quản. Ha ha ha….
Nói dứt câu, A Ngưu quẹt cây diêm trên tay, ném thẳng vào vách tường khiến ngọn lửa bắt gặp dầu hỏa, bùng cháy dữ dội. Chẳng mấy chốc, ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt, tiếng thầy Chu kêu la thảm thiết trong nhà, hoà quyện cùng những tiếng nổ tí tách của mái nhà tranh. A Ngưu ngẩng mặt lên trời cười ha hả, hắn đang tự mãn, đang vui sướng với những việc mình làm, song chỉ có điều, ánh mắt hắn lúc này đỏ hơn cả ngọn lửa phía trước mặt.
Tiếng gào thét của thầy Chu tắt lịm, chỉ còn râm ran những tiếng nổ lách tách phát ra từ trên đỉnh mái. Không lâu sau, căn nhà bỗng chốc bị ngọn lửa nhấn chìm, sụp đổ hoàn toàn.
Căn nhà này gắn bó với A Ngưu suốt mấy mươi năm, bỗng hoá thành đống tro tàn chỉ trong một đêm đầy oán nghiệp. Hắn quay lưng bước đi, nhìn xuống mặt đất, thấy những sợi chỉ màu được thầy Chu đan chồng chéo trong trận pháp, và cả những lá bùa vô hình được thầy khắc hoạ, đồng loạt lóe sáng, cháy rụi chỉ trong tích tắc.
Vào lúc hắn định quay đi thì giọng nói quen thuộc từ đâu đây vọng lại, thoáng qua bên tai nhưng hắn nghe rất rõ:” Nghịch Tử! Người giết thầy phản đồng môn, đã phạm vào tội đại nghịch bất hiếu, trời đất không dung. Hãy nhớ đấy! Nhà ngươi chỉ sống được đến năm 39 tuổi.” Khà khà khà….sau câu nói ấy là một tràng cười sảng khoái. A Ngưu rùng mình bừng tỉnh, giọng nói ấy, tiếng cười kia, cũng lập tức biến mất.
Tội ác của hắn trời không dung đất không tha, có tát hết nước biển Đông cũng không xoá sạch
Mặt đất trở lại nguyên vẹn như lúc ban đầu. Sắc trời càng thêm đen quánh, sương rơi âm thầm, tuy không có gió, song A Ngưu vẫn cảm thấy lạnh buốt đến dị thường. Vừa sải vài bước chân, A Ngưu chợt sững người khi nhận ra một bàn chân mình vừa đạp vào vật gì đó trơn tru nhẵn bóng, trơn mướt. Chưa kịp ngó xuống, con rắn màu đen dưới đất đã nhanh chóng oằn mình cuộn tròn trên cổ chân anh ta, nó ngóc cao đầu, há to miệng, thè nọc dài rồi nhanh nhẹn lấy đà cắn phập vào bắp chân phải.
“ Á..!!!”
A Ngưu khom người đưa tay xoa xoa vết thương, cố căng mắt xem con gì vừa cắn mình, nhưng nó đã biến mất không để lại dù chỉ là một dấu vết. Vết thương không chảy máu, song nó bắt đầu làm cho các dây thần kinh trong người A Ngưu bỗng nhiên chấn động, máu huyết trong người đổ về não, khiến anh ta đột nhiên hoa mắt chóng mặt.
“ Là vết rắn cắn?” A Ngưu lầm bầm trong miệng.
Một dòng khí lạnh nhen nhóm từ khúc xương cụt đổ lên, dần lan tỏa ra khắp cơ thể, chẳng mấy chốc toàn thân A Ngưu cứng đờ, giống bị phong ấn trong một tảng băng lớn.
Mồ hôi trên người anh ta túa ra lút đầu, vì mệt, cũng vì sợ hãi. Nhưng anh ta không thể lau mồ hôi được, ngay cả động tác vung vẩy của cánh tay đã không thể điều khiển được nữa. Mồ hôi ròng ròng che mờ hai mắt, khiến A Ngưu không còn nhìn rõ lối đi phía trước. A Ngưu chỉ còn nghe rõ tiếng thở dốc nặng nề của mình, tiếng thở của anh ta đã lấn át các âm thanh khác, trở thành sấm dội duy nhất trong tai A Ngưu lúc này.
A Ngưu chệnh choạng chạy về phía trước, những cái vấp chân vào những hòn đá nằm ngổn ngang trên đường ngày một nhiều. Có lúc tưởng chừng như nhoài người ngã về phía trước. Trước mặt A Ngưu là một con đường không có điểm tận cùng, nhưng anh ta biết, cho dù con đường này dẫn đến thiên đường hay địa ngục, thì trước khi tới đích, mình đã chết rồi. Hơn nữa, rất có thể là một cái chết cực kỳ đớn đau sau khi đã vắt kiệt sức lực để chạy.
Anh ta vẫn hy vọng có một phép màu nào đó bất ngờ xuất hiện, cứu giúp mình qua kiếp nạn mạt vận này. Đôi môi A Ngưu khô khốc, bong tróc từng mảng, cổ họng khát khô, hai chân mềm nhũn. Anh ta không muốn chết vì kiệt sức, cũng không muốn phải chết vì dính phải nọc độc của con rắn chết tiệt, thà mình bị đám người của Huấn sẹo hay của Hai chột phanh thây xẻ thịt còn hơn, bởi vậy, anh ta quyết định sẽ cố hết sức, chạy về phía nhà dân cầu cứu.
Đi thêm một đoạn, cơ thể anh ta đã hoàn toàn mất đi khả năng kiểm soát, mọi động tác đều được thực hiện một cách máy móc, đặc biệt là đôi chân, đã hoàn toàn không đứng vững.
A Ngưu cảm thấy mình như mình đã sa vào đầm lầy tuyệt vọng, chỉ biết giương mắt nhìn màn đêm đang dần chiếm mất thị giác, và cả cơn đau do vết thương hành hạ, có muốn tự vẫn chết ngay cũng không xong. Mồ hôi đã lấp kín đôi mắt, chảy nhễ nhại trên khắp khuôn mặt anh ta.
Hắn đổ gục xuống đường, thứ âm thanh còn sót lại trong tâm thức mà hắn cảm nhận được, đó chính là tiếng động cơ xe máy.
-Mau khiêng nó lên xe, chúng ta phải chở nó đến nhà thầy Chom – Bay gấp.
—-
Hào ngồi bên cạnh chiếc giường mà A Ngưu đang nằm, chốc chốc lại liếc mắt nhìn qua chỗ ông thầy Chom-Bay. Anh ta lo lắng muốn hỏi gì đó nhưng lại sợ làm phiền thầy, phải lấy hết dũng khí anh ta mới dám lên tiếng.
-Lẽ nào lần này quả thực là kiếp nạn khó thoát của A Ngưu?
Ông thầy Chom-Bay cười nhếch môi, mãi một lúc sau ông ta mới nhấc mông đứng dậy, đưa chiếc hũ thuỷ tinh miệng tròn vừa được mình hơ nóng trên ngọn lửa, đi đến bên cạnh chỗ A Ngưu, nói:
-Ai chẳng có lúc gặp nạn, ai chẳng có lúc bồng bột. Sau đại nạn không chết,thì sau này không cần e ngại điều gì nữa, cũng không có ai làm khó được cậu ta.
“ Thật không uổng là người sư phụ ta đã chọn.” Ông ta nghĩ thầm trong đầu.
Chom-Bay thổi vào hũ thuỷ tinh ba hơi, sau đó úp miệng bịt chặt vào vết rắn cắn. Làm vài ba động tác kỳ quặc, miệng luyên thuyên lảm nhảm những câu gì đó bằng tiếng Miên, mà thằng Hào nghe chẳng hiểu. Phải mất nửa tiếng ông ta mới rút chiếc hũ thuỷ tinh ra khỏi vết thương, thật kỳ lạ, mới lúc nãy thôi Hào còn trông thấy chiếc hũ chống không, thì giờ đây nó đã lưng lưng hũ toàn là máu đen xì.
-Có phải, đây là máu độc trong cơ thể A Ngưu tiết ra? – Hào lên tiếng hỏi.
Lão thầy gật gù:
-Đúng vậy! Hên cho cậu ta gặp tôi sớm, chứ để chậm một khắc nữa, thần tiên tái thế cũng không thể cứu vãn.