4.
Mùa đông thoáng chốc đã qua, xuân lại đến. Nhưng Đông Cung dường như vẫn mãi chìm trong cái lạnh giá của mùa đông ấy.
Thái tử phi ốm yếu, cả ngày nằm trên giường, nụ cười dần trở nên hiếm hoi, còn Thái tử thì bận rộn hơn trước, tính tình càng thêm nóng nảy. Tiểu Ngộ bị phạt càng lúc càng nhiều, hình phạt ngày một nặng hơn.
Tiểu Ngộ trở nên lặng lẽ, không còn hoạt bát như trước, ánh sáng trong đôi mắt dường như tàn lụi từng ngày. Ta luôn cảm thấy, cái mùa đông ấy đã lưu lại trên người Tiểu Ngộ rất lâu.
Khi ta đến nơi, Tiểu Ngộ đang quỳ trên nền đất lạnh lẽo. Thái tử giơ roi, từng nhát roi quất lên tấm lưng gầy yếu của đệ ấy, máu từ trong áo rỉ ra, từng vết hằn đập vào mắt ta đầy kinh hãi.
Đệ ấy cắn môi, kiên cường thẳng lưng không kêu một tiếng, nhưng nước mắt thì không thể kìm lại, từng giọt từng giọt rơi xuống. Tim ta như bị bóp nghẹt, không màng lễ tiết, ta xốc váy chạy đến, quỳ xuống ôm chặt lấy Tiểu Ngộ, vừa đau lòng vừa khóc không thành tiếng.
“Tiểu Phong! Tránh ra! Để ta đánh ch/ết đứa nghiệt tử này!”
Thái tử đã bị cơn giận làm mất đi lý trí, giống như một con sư tử điên cuồng. Ta cảm thấy ngài ấy thật sự sẽ đánh ch/ết Tiểu Ngộ, nên càng ôm chặt lấy đệ ấy, không chịu buông tay.
“Đừng đánh nữa, Thái tử điện hạ, người sẽ đánh ch/ết đệ ấy mất!”
“Ta phải đánh ch/ết đứa con bất hiếu, đam mê chơi bời, bỏ bê chính sự này!”
Thái tử vẫn chưa nguôi giận, chiếc roi trong tay không có chỗ rơi xuống, ngài ấy giận dữ đến mức đi vòng quanh.
“Thái phó đã dốc lòng dạy dỗ mà nó không chịu học! Cứ nhất quyết chạy đến Thái Y Viện học cái gì mà y thuật! Tề Thái phó là sư phụ của Cô! Bị nó làm tức đến ngất xỉu! Hôm nay ta không đánh ch/ết nó, thì nó sẽ không biết cái gì gọi là trời đất quân sư! Không biết thế nào là tôn sư trọng đạo!”
“Con chỉ muốn học y thì có gì sai?” Tiểu Ngộ ngẩng đầu, cố chấp không chịu nhận lỗi.
Thái độ của Tiểu Ngộ càng làm Thái tử thêm phẫn nộ: “Ngươi học y để làm gì? Thái Y Viện có bao nhiêu thái y đều là truyền từ đời này sang đời khác, từ nhỏ đã thấm nhuần! Bọn họ ai mà không giỏi hơn ngươi? ‘Khổng’, ‘Mạnh’, ‘Quản’ ngươi không học, ‘Hán’, ‘Tôn’, ‘Lão’, ‘Trang’* ngươi cũng không thèm xem. Những điều bọn họ dạy lẽ nào không bằng mấy cuốn sách lang y vớ vẩn mà ngươi đọc?”
(*Câu này liệt kê một số tác phẩm triết học, tư tưởng quan trọng của Trung Quốc cổ đại, bao gồm các tác phẩm của Khổng Tử, Mạnh Tử, Quản Tử, Hán Phi Tử, Tôn Tử, Lão Tử và Trang Tử)
“Một mai thiên hạ này giao vào tay ngươi! Ngươi định dùng cái y thuật nửa vời của mình để trị quốc sao? Hôm nay ta không đánh cho ngươi tỉnh ngộ, ngày sau ngươi làm vua sẽ thành họa cho bách tính! Đó chính là lỗi của ta, không xứng làm cha làm quân!”
Nói xong, ngài ấy cương quyết kéo Tiểu Ngộ ra khỏi vòng tay ta, “Chát chát”, lại hai roi nữa giáng xuống.
Ta quỳ sụp xuống, lao đến ôm lấy Tiểu Ngộ trong lòng, nước mắt rơi không ngừng: “Đừng đánh nữa! Thái tử điện hạ, xin đừng đánh nữa! Tiểu Ngộ đã biết lỗi rồi, cầu xin người đừng đánh nữa!”
“Nó biết lỗi rồi? Ta thấy nó không phục đâu!” Thái tử giơ roi định đánh tiếp, ta lao tới giữ chặt tay cầm roi của ngài ấy, khóc nói: “Nếu người muốn đánh thì hãy đánh ta đi! Nếu Tiểu Ngộ bị người đánh ch/ết, ta và Thái tử phi cũng chẳng muốn sống nữa! Dù sao Đông Cung này cũng đã ch/ết lặng từ lâu rồi!”
Lời ta nói như mũi tên đâm vào tim Thái tử.
Ngài ấy thở dài một tiếng, ném mạnh chiếc roi xuống đất, rồi phất tay áo bỏ đi. Ta ôm chặt Tiểu Ngộ trong lòng, đợi đến khi Thái tử đi xa, Tiểu Ngộ mới bật khóc thành tiếng, nước mắt từng hạt lớn rơi xuống, như từng nhát dao đâm thẳng vào lòng ta.
Ta đưa Tiểu Ngộ về phòng, thay thuốc cho đệ ấy. Trên lưng, da thịt đã rách nát, m/áu me bê bết. Vừa bôi thuốc, ta vừa không ngừng khóc, nước mắt chảy mãi không ngừng, tựa như chính mình còn đau hơn cả đệ ấy.
Nghe ta khóc thảm như vậy, Tiểu Ngộ lại dường như chẳng thấy đau nữa: “Tiểu Phong, đừng khóc nữa. Ta quen rồi. Chỉ mấy ngày thôi, ta sẽ khỏe lại nhanh thôi mà.”
Ta không đáp, chỉ vì nghẹn ngào mà không thể nói thành lời, tiếp tục bôi thuốc cho đệ ấy.
“Khi ta sinh ra, đã có người nói ta là cô sát tinh chuyển thế, khắc phụ mẫu, khắc huynh đệ. Bởi thế bao nhiêu năm nay, trong đám con cái của phụ vương và mẫu thân, chỉ có mình ta sống sót.”
“Đó không phải lỗi của đệ. Muội muội là vì phát ban nên mới qua đời.”
“Ta cũng từng phát ban khi còn nhỏ, nhưng ta không sao. Vậy mà muội muội lại không qua khỏi.”
“Đó không phải lỗi của đệ.” Ta không biết phải nói gì thêm, cũng chẳng biết phải an ủi thế nào.
“Ta biết phụ vương không thích ta, nên dù ta làm gì, người cũng không hài lòng.”
“Nhưng ta chỉ muốn học y thuật cho thật giỏi, chẳng qua là không muốn để mẫu thân mất đi thêm một đứa con nữa, lẽ nào điều ấy cũng sai sao?” Lý Ngộ ủy khuất bật khóc, khóc đến nỗi nghẹn lại không thở nổi.
Ta không biết phải làm gì, chỉ có thể ôm đệ ấy vào lòng. Dần dần, đệ ấy khóc đến mệt rồi gối đầu lên chân ta mà thiếp đi.
Thời tiết mỗi ngày một ấm áp hơn, nhưng tẩm cung của Thái tử phi vẫn lạnh lẽo như cũ. Nàng không cho người đốt hương, cũng không cho đặt lò sưởi, cố làm như thể mùa đông vẫn chưa kết thúc.
Bệnh tình của Thái tử phi đã khỏi hẳn từ lâu, nhưng nàng vẫn không chịu rời giường. Ta biết là bệnh trong tâm nàng chưa khỏi. Nàng không gặp Thái tử, cũng không gặp Lý Ngộ.
Mỗi ngày, chỉ nằm hoặc ngồi trên giường, ánh mắt trống rỗng, thất thần. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, Thái tử phi đã gầy guộc đi, bóng dáng phai nhạt đi hẳn so với ngày xưa.
Tiểu Ngộ đứng chờ bên ngoài, muốn vào thỉnh an. Ta nhìn Thái tử phi trên giường, nhẹ nhàng vỗ lên mu bàn tay nàng. Nàng giật mình quay lại, dùng ánh mắt đầy nghi hoặc nhìn ta.
Ta khẽ nói: “Nương nương, Tiểu Ngộ đến thỉnh an người.”
Thái tử phi lắc đầu, vẻ mặt uể oải, rồi quay lưng lại với ta, nhắm mắt nằm xuống. Ta thở dài một tiếng, lặng lẽ lui ra ngoài, nhìn Tiểu Ngộ đứng trong sân với ánh mắt đầy mong đợi.
Ta khẽ lắc đầu. Ánh sáng hy vọng trong mắt đệ ấy lập tức tắt lịm, rồi quay đầu chạy đi.
Ta biết, đệ ấy đang khóc.
“Tiểu Ngộ!” Ta gọi với theo rồi đuổi theo đệ ấy.
Đã mấy tháng nay đệ ấy chưa được gặp mẫu thân của mình. Ngày nào Tiểu Ngộ cũng đến, nhưng Thái tử phi, người đang chìm trong nỗi đau không thể nguôi ngoai, vẫn không chịu gặp người con của mình.
Nỗi đau khôn nguôi của phụ mẫu hàng ngày đè nặng lên vai đứa trẻ mười mấy tuổi này, điều ấy thật quá tàn nhẫn. Tiểu Ngộ chạy một mạch đến bên hồ, tháo sợi dây buộc con thuyền nhỏ duy nhất mà đệ ấy đã giấu đi, rồi ra sức chèo thuyền hướng về giữa hồ.
“Tiểu Ngộ!” Ta đứng trên bờ gọi với theo, nhưng đệ ấy không quay đầu lại. Ta biết Tiểu Ngộ rất đau lòng, vì ta cũng đau lòng như đệ ấy.
Đông Cung đã chìm trong nỗi u sầu quá lâu rồi, đã lâu lắm rồi chúng ta không còn cùng nhau ngồi ăn trên một bàn tiệc. Gương mặt mọi người đều hiếm khi nở nụ cười, như thể mùa đông chưa từng rời xa.
Ta không thể để Đông Cung tiếp tục như vậy nữa.
Ta lao mình xuống hồ. Tiểu Ngộ giật mình kinh hãi, vội bỏ lại mái chèo, bám vào mép thuyền lo lắng nhìn xuống nước tìm kiếm.
“Tiểu Phong! Tiểu Phong!”
Ta nín thở, bơi ra phía sau thuyền, rồi khi Tiểu Ngộ còn đang tập trung nhìn về phía trước, ta bất ngờ trồi lên từ phía đối diện, bám vào mép thuyền. Đệ ấy giật mình kêu lên một tiếng rồi ngồi phịch xuống đáy thuyền.
Nhìn ta cười với mình, đệ ấy mới thở phào nhẹ nhõm rồi cười theo, nhưng vẫn còn chút hoảng sợ. Qua trận đùa giỡn ấy, cuối cùng ta cũng bị bệnh. Cơn sốt kéo đến, ta nằm trên giường không thể đi đâu được. Ta đành phải chìm vào một giấc ngủ sâu.
Khi tỉnh dậy, ta nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy hoa đào bất ngờ nở rộ, sau một mùa đông lạnh lẽo, giờ đây trong gió xuân, hoa đào bung nở rực rỡ, như thể được tái sinh.