Chương 17:
Trong cơn mơ hồ, ta như thể đang ở nhà mẹ đẻ, lại như đang ở nhà họ Hứa. Ngồi một mình trong căn bếp tối tăm, cầm nửa bát thức ăn thừa, lòng trĩu nặng. Ta tự hỏi không biết những ngày tháng u ám này bao giờ mới kết thúc? Cảm giác như không còn lối thoát.
Nhưng trước mắt, ánh đèn sáng rực. Hai đứa trẻ đang quỳ trước mặt ta, cung kính dập đầu. Ta đưa cho chúng tiền mừng tuổi, chúng vui vẻ chúc ta nhiều điều tốt đẹp. Đại Lang ở ngoài sân đốt pháo, còn Tú Nhi nép sau lưng hắn, Tống Toàn nắm tay ta, cả hai đứng dưới mái hiên cười hạnh phúc.
“Nhị nương, nàng xem, cuộc sống này tốt đẹp biết bao? Nhờ cưới được nàng, ta và các con mới có được một gia đình.”
Nhờ gặp được họ, ta mới thực sự có một mái ấm.
Phật dạy nhân duyên đều do gặp gỡ, còn ta tin rằng cuộc đời luôn có những chuyển biến. Không phải lúc nào trao đi chân tình cũng nhận lại được hồi đáp, nhưng nếu người đó chân thành, tốt bụng, sớm muộn gì họ cũng sẽ đối đãi thật lòng với ta.
Sau Tết, chúng ta vào thành và thuê một căn nhà nhỏ, phía trước là cửa hàng, phía sau có ba gian phòng và một căn bếp nhỏ. Tống Toàn muốn buôn bán da thú, nhờ quen biết nhiều thợ săn, giá cả cũng hợp lý, công việc buôn bán dần khấm khá. Mỗi mùa, hắn đều phải vận chuyển da thú đến kinh đô, rồi từ đó mang về vải vóc và các mẫu quần áo mới.
Ta đã học được cách đọc chữ, nên mỗi khi Tống Toàn không ở nhà, ta cùng Tú Nhi trông coi cửa hàng. Buôn bán không dễ như tưởng tượng, phải đối đãi với quan phủ, kết giao với các thế lực địa phương, đôi khi còn phải đối mặt với sự chèn ép từ đối thủ. Gặp cướp trên đường vận chuyển hàng hóa thì chẳng kiếm được đồng nào, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng.
Cả năm chẳng kiếm được bao nhiêu, nhưng chỉ cần mọi người bình an, khỏe mạnh, cuộc sống vẫn tốt đẹp.
Mười năm kể từ ngày thành thân, ta và Tống Toàn vẫn chưa có con. Ta đi khám nhiều nơi, uống không ít thuốc, nhưng không có kết quả.
Uống thuốc được hai năm, Tống Toàn không cho ta uống nữa.
“Nhị nương, nàng đừng buồn. Đại Lang và Tú Nhi yêu thương nàng như mẹ ruột, chẳng khác gì con do nàng sinh ra…”
Ta vốn lo hắn sẽ để bụng, không ngờ hắn lại sợ ta buồn.
“Thuốc thang ta cũng uống đủ rồi, chàng đã nói vậy, ta nghe theo chàng.”
Từ đó, chúng ta không bao giờ nhắc đến chuyện con cái nữa.
Đại Lang thật giỏi giang, năm hai mươi hai tuổi đã đỗ Tiến sĩ, rồi vào làm quan trong Hàn Lâm Viện. Ta và Tống Toàn như có thêm sức mạnh, liền mua một căn nhà nhỏ ở kinh đô.
Tống Toàn vẫn buôn bán da thú, nhưng gia đình chúng ta giờ đã yên ổn ở kinh đô.
Năm Vĩnh Hòa thứ hai mươi bảy, con trai ta, Đại Lang, đã là một vị quan ngũ phẩm.
Tuổi chúng ta đã cao, Tống Toàn muốn trong quãng đời còn lại có thể trở về quê hương để cúng tổ tiên.
Đại Lang rất hiếu thảo, lập tức xin nghỉ phép, cùng Tú Nhi đưa cả nhà về quê. Chúng ta đã gả Tú Nhi cho một người ở rể.
Hắn tên là Ngân Sương, không có gia đình, cũng không có họ. Cái tên nghe hoa mỹ, người cũng đẹp đẽ, nhưng điều quan trọng là hắn đối xử với Tú Nhi thật lòng, không ai có thể tốt hơn.
Hiện tại, họ quản lý công việc kinh doanh của gia đình và đã sinh được hai con trai, một con gái.
Thê tử của Đại Lang là con gái lớn của Hàn Lâm học sĩ họ Trần, tên Tư Kiều. Năm xưa chính nàng là người để ý đến Đại Lang trước, sau bao nhiêu lần theo đuổi kiên trì, cuối cùng cũng khiến Đại Lang cảm động.
Tư Kiều là người mạnh mẽ, thẳng thắn, nên rất hợp tính với ta.
Lúc này, Đại Lang và Ngân Sương đang dẫn các con trai cưỡi ngựa, còn Tư Kiều và Tú Nhi đưa hai cháu gái cùng chúng ta ngồi xe.
Mùa xuân ấm áp, chúng ta đi đường chậm rãi nên không cảm thấy mệt nhọc chút nào.
“Hồi đó, khi ta một mình chở hàng, cảm giác con đường dài vô tận. Bây giờ đi lại con đường ấy, chẳng mấy chốc đã gần đến nơi.”
Tống Toàn giờ đây tóc đã bạc, lưng đã còng, thân hình gầy guộc, trông không khác gì những ông lão trong làng.