“Hóa ra là một đứa bé thú vị.” Bà ấy dùng giọng điệu nhàn nhạt ấy nói tiếp, “Cũng được, nếu con đi theo ta thì sau này ta sẽ nuôi dạy con. Ta rất nghiêm khắc, chưa chắc con sẽ thích mấy thứ ta dạy.”
Ta cung kính khoanh tay: “Phu nhân dạy cái gì thì Ninh nhi học cái đó ạ.”
3.
Một đống sổ sách chất cao như núi bày trước mắt ta, còn có cả bàn tính đã được đặt sẵn trên bàn.
Đại phu nhân vừa cầm cây thước vừa căn dặn ta: “Phải tập trung, mất tập trung quá ba lần thì ta sẽ khẽ tay con.”
Học tính toán sổ sách đúng là chuyện khô khan vô cùng, không thể so bì với thi từ phong nguyệt được. Những con số khiến người ta đau đầu không thôi, cái gì mà thu vào, cái gì mà chi ra, tính toán rõ ràng đã khó chứ đừng nói đến việc phải phân tích từng cái.
Đôi lúc ta sẽ buồn ngủ, khi ấy đại phu nhân sẽ khẽ thước vào lòng bàn tay ta.
Thật ra bà ấy đánh không đau lắm, nhưng lại làm ta giật mình.
Đại phu nhân thu thước lại, nhỏ giọng hỏi ta: “Cực lắm đúng không?”
Ta lắc đầu, nhưng suy nghĩ một chốc lại gật đầu: “Vâng, rất vất vả ạ.”
Ánh mắt của đại phu nhân tối sầm lại.
Ta nói tiếp: “Nhưng con biết nếu con không học những thứ này thì lúc gả đến nhà người ta làm chủ mẫu, ai cũng có thể ỷ vào việc con không hiểu mà bắt nạt con, lừa gạt con, đến khi đó, chắc chắn sẽ còn khổ hơn nữa ạ.”
“Con người đều phải chịu khổ, nữ nhi thà khổ vì học chứ không muốn khổ vì dốt ạ.”
Người đối diện ta khẽ nhướng mày.
Thật ra đại phu nhân rất xinh đẹp, chỉ nhìn thoáng qua thôi cũng có thể tưởng tượng ra được vẻ thanh tú của bà ấy vào những tháng ngày còn trẻ. Chẳng qua bây giờ bà ấy thường mặc trang phục màu trắng để lễ Phật nên cả người luôn toát ra vẻ nặng nề, trầm lắng.
Ta rất thích đại phu nhân, tuy bà ấy thường lạnh nhạt với ta, nhưng bà ấy lại là người sẽ lặng lẽ tới dém chăn cho ta rồi âm thầm rời đi giữa đêm đông lạnh lẽo.
Song, cha ta không thích bà ấy, bình thường ông ta rất hiếm khi tới viện này.
Chạng vạng hôm đó, rốt cuộc cha ta cũng tới.
Mỗi tháng ông ta sẽ đến chỗ đại phu nhân một lần, xem như là giữ thể diện cho vợ cả.
Hôm ấy, người làm trong sân đều bận rộn vì vui sướng, không khí cũng nhộn nhịp hơn hẳn ngày thường.
Nào ngờ cha ta còn chưa ngồi được nửa canh giờ thì ngoài viện đã truyền tới tiếng hát:
“Thái dương mai tóc tựa như đao, trên trán điểm hoa Phù Dung nhỏ. Sợ không trang điểm, mẹ đoán được. Bèn cài trâm, nửa xõa nửa nghiêng.”
Cha ta không nhịn được mà hỏi: “Ai đang hát vậy?”
Người làm vội đáp: “Là Triệu di nương đang dạy Dung cô nương học hát ạ.”
Một lát sau, Triệu di nương bước vào cùng một làn gió thơm.
Bà ta trang điểm xinh đẹp, dắt theo Thẩm Uyên Dung cũng lộng lẫy như hoa.
“Thẩm lang nghe Dung nhi hát không? Có phải còn hay hơn cả thiếp lúc còn trẻ không ạ?”
Vẻ mặt của cha ta dịu dàng hơn hẳn: “Nhớ năm đó nàng cũng hát khúc này vào hôm chúng ta gặp nhau lần đầu ở đình nhỏ giữa hồ.”
Triệu di nương e thẹn: “Không ngờ Thẩm lang vẫn còn nhớ rõ đến vậy.”
“Bây giờ giọng thiếp không thể so được với năm ấy, cũng may có thể truyền dạy lại cho nữ nhi. Dung nhi, mời cha con vào phòng, hát cho ông ấy nghe một lần nữa nhé?”
Thẩm Uyển Dung vội tiến tới kéo tay áo của cha ta: “Cha à, con và di nương nhớ người lắm đó. Trong viện đã chuẩn bị sẵn trà và trái cây, cha vừa thưởng thức, vừa nghe con hát có được không?”
Nàng ta và Triệu di nương người trái người phải, tươi cười như hoa, chỉ trong chốc lát cha ta đã bị kéo đi.
Trong phòng đại phu nhân lại vắng vẻ đến nao lòng.
Mấy nha hoàn ai ai cũng buồn như đưa đám, lão gia chỉ đến đây một lần mỗi tháng, ấy vậy mà bị cướp đi mất rồi.
“Phu nhân, vậy có dâng đồ ăn lên không ạ?”
Tối nay có rất nhiều món ăn, người bên phòng bếp biết lão gia tới nên mới cố ý bày ra như vậy.
Đại phu nhân còn chưa kịp lên tiếng thì ta đã đứng bật dậy.
“Mang lên chứ, sao lại không? Cha ta không ăn thì chúng ta ăn.”
“Sao hả, chẳng lẽ đàn ông không đến thì nữ nhân chúng ta không nuốt cơm nổi sao? Mang lên hết một lượt đi. Hôm nay có Bát tiên om trân châu nhỉ? Ta thích món đó nhất, một mình ta có thể ăn hết một chậu đó.”
Đám nha hoàn nghe ta nói xong thì phấn khích lên hẳn, họ bắt đầu chia thức ăn, không khí cả phòng náo nhiệt trở lại.
Đại phu nhân nhìn ta một lúc lâu rồi nở nụ cười thật hiếm hoi: “Nha đầu này giỏi, đúng là một đứa nhóc chẳng chịu thua thiệt.”
Từ đó về sau, đại phu nhân thường dặn phòng bếp nấu món Bát tiên om trân châu kia.
Ta ăn vô số bát, nhưng vẫn chưa gặp lại cha.
Hầu như ngày nào ông ta cũng ở chỗ Triệu di nương, trong phủ có món nào ngon hay cái gì vui, ông ấy cũng đều đưa đến chỗ Triệu di nương và Thẩm Uyển Dung trước.
Có một ngày, Thẩm Uyển Dung gặp ta thì cười đến rung cả khuyên tai.
“Nhìn thấy chưa? Đích nữ thì sao chứ? Lòng cha hướng về ai thì người đó hưởng.”
“Bà già chỗ ngươi chỉ là phế vật, rồi ngươi cũng sẽ học thành đồ bỏ như bà ta mà thôi.”
Nàng ta mong chờ được thấy vẻ mặt khổ sở đến phát khóc của ta, nào ngờ ta lại thờ ơ đáp rằng: “Tỷ tỷ, tỷ có nghĩ tới chuyện chỉ có thứ đào kép mới ca mấy bài hát dân gian kia chưa? Bây giờ Triệu di nương có thể dạy tỷ làm như vậy để đoạt lấy sự cưng chiều từ cha, biết đâu sau này bà ta sẽ khiến tỷ chịu đựng nhiều hơn nữa thì sao?”
Thẩm Uyển Dung lập tức thay đổi sắc mặt.
Nhưng chỉ trong chốc lát, nàng ta lại bật cười: “Ngươi chỉ đang ghen tỵ với ta thôi. Hãy đợi đấy, sau này ngươi sẽ càng khổ sở hơn cho mà xem.”
Nói xong, nàng ta xoay người rời đi.
Thật ra ta chẳng dối gạt nàng ta làm gì.
Kiếp trước, Triệu di nương cũng đối xử với ta hệt như vậy.
Bà ta dạy ta hát, dạy ta múa, bắt ta biểu diễn đủ tài nghệ cho cha xem.
Khi đó trong phủ chỉ có đại phu nhân và Triệu di nương, mà đại phu nhân không được sủng ái, thế nên Triệu di nương chỉ cần dựa vào mấy thứ này là đủ để giữ chân cha ta lại rồi.
Nào ngờ sau này cha ta lại cưới về một cô nương trẻ trung xinh đẹp khác, vậy là những mánh khóe kia chẳng còn đủ dùng nữa.
Triệu di nương bèn nâng cao thủ đoạn.
Bà ta bỏ thuốc ta, khiến ta bị thổ tả.
Bà ta còn bôi dầu lên sàn luyện múa của ta, cố ý để ta ngã.
Chờ đến khi ta bị thương, bà ta lại chạy đến chỗ cha ta ra vẻ đau lòng khóc lóc kể lể, cầu xin cha tới thăm ta một chút, dùng cách này để giữ cha ta lại.
…