7.
Đêm nay trăng sáng sao thưa, ta ngồi trong sân bóc vỏ củ ấu cùng đại phu nhân.
Nơi xa truyền đến tiếng kêu thảm thiết của Triệu di nương cùng Thẩm Uyển Dung.
Đại phu nhân vừa xoa tay vừa nói: “Chắc con đang âm thầm chê cười ta nhỉ. Rõ ràng có bản lĩnh, nhưng mấy năm qua chẳng tranh chẳng giành, cứ chịu uất ức mãi.”
Ta bỏ củ ấu đã được lột vỏ vào mâm sứ trắng nõn như tuyết, “Phu nhân không tranh là vì cha con không đáng để người tranh.”
Ta im lặng trong chốc lát rồi nói tiếp: “Nhưng mà phu nhân… Nếu yêu ai thì vẫn nên tranh một phen ạ.”
Phu nhân lập tức dừng tay.
Đêm lạnh như nước, ánh trăng uốn lượn.
Một lúc lâu sau, ta nghe thấy tiếng người nọ thở dài: “Con biết rồi?”
Đúng vậy, ta biết.
8.
Mấy năm gần đây, mỗi lần ta theo đại phu nhân tới chùa Kinh Giao dâng hương đều gặp một vị hòa thượng.
Vị hòa thượng ấy luôn mặc chiếc tăng bào màu lam hơi cũ, mặt mày đẹp như tranh sơn thủy.
Mọi người gọi ngài ấy là đại sư Trần Nhất.
Có người nói, đại sư Trần Nhất từng là vị tướng trẻ kiệt xuất nhất Kinh thành, năm đó ngài mặc áo choàng trắng cùng giáp bạc, khí phách vô cùng.
Ngài ấy và đại phu nhân là thanh mai trúc mã, thanh bảo kiếm kia cũng là tín vật mà ngài ấy tặng cho đại phu nhân.
“A Vân, chờ ta trở lại sẽ cưới nàng.”
Vậy mà lần xuất chinh ấy, mười vạn đại quân đã táng thân ở Tây Vực, vị tướng quân trẻ tuổi ấy cũng không trở lại nữa.
Đại phu nhân định chấm dứt cuộc đời cùng người thương, nào ngờ chuyện chẳng thành.
Bà được gả đi, cõi lòng cũng héo úa như cành cây khô.
Mười năm sau, vị tướng quân ấy trở lại…
Ngài ấy bò về từ tu la địa ngục, dốc hơi sức cuối cùng để gặp lại cô nương mình ngày nhớ đêm mong.
Vậy mà cô nương ấy đã lên kiệu hoa theo người.
Tướng quân không tới làm phiền nàng mà đến chùa Kinh Giao quy, lấy pháp danh là Trần Nhất.
…
Tất cả chỉ là lời đồn thổi.
Ta từng tận mắt trông thấy đại phu nhân và đại sư Trần Nhất gặp nhau trong chùa.
Hai người hành lễ từ xa, tựa như trăng sáng trên núi, không dây dưa, cũng chẳng tiếc nuối. Họ cứ như hai kẻ đi đường lướt qua nhau, nếu không phải nghe mấy lời đồn thổi kia thì chẳng ai nhận ra bọn họ từng quen biết nhau.
Duy có một lần đại phu nhân sốt cao mãi không dứt, bà ấy uống hết chén thuốc này đến chén thuốc khác mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm.
Cha ta ở chỗ Triệu di nương, tiểu nha hoàn đi mời mấy lần nhưng lần nào cũng bị người của Triệu di nương cản lại.
Vú Ngô đầu đầy mồ hôi, bà ân cần nắm lấy tay phu nhân: “Gọi ngài ấy tới được không ạ? Gọi ngài ấy…”
Ta đứng một bên cầm chén thuốc, dường như chỉ trong tích tắc, ta đã hiểu phải đi gọi người nào.
Ta âm thầm đưa chén thuốc cho vú Ngô rồi cỡi con ngựa nhanh nhất lao vào bóng đêm, chạy thẳng tới chùa Kinh Giao.
Đại sư Trần Nhất tới.
Ngài ấy không vào phòng của đại phu nhân mà gõ mõ suốt đêm dài ở Phật đường bên cạnh.
Đại phu nhân nghe tiếng mõ thì dần khá hơn.
Dẫu cách một bức tường nhưng bà ấy biết người kia đang ở cạnh mình, không cần gặp nhau… nhưng ánh trăng đều soi sáng cả hai.
…
Giờ phút này, dưới ánh trăng sáng tỏ, ta nắm tay đại phu nhân.
“Phu nhân, có một số việc người ngỡ đã chậm, nhưng thật ra vẫn chưa muộn đâu ạ.”
9.
Triệu di nương và Thẩm Uyển Dung được thả ra sau một tháng bị cấm túc.
Cha ta thiên vị cũng ghê gớm thật đấy. Nói là đánh ba mươi hèo, nhưng hèo nào cũng nhẹ như chuồn chuồn lướt mà thôi.
Triệu di nương và Thẩm Uyển Dung hét thấu trời đất là vậy, nhưng chưa tới nửa tháng mà họ đã khôi phục như lúc ban đầu.
Khi gặp ta, Thẩm Uyển Dung cười tươi như mặt trời.
Nàng ta nói: “Có bà già kia làm chỗ dựa thì sao hả? Nhìn đi, dẫu gì thì nam nhân vẫn là người có quyền lực nhất trong nhà. Trong phủ này, ai mà hơn được cha cơ chứ.”
Đại phu nhân đang sửa sang lại bình hoa gần cửa sổ thì hay tin. Sau khi nghe vú Ngô báo lại, bà ấy chỉ im lặng nhướng mày, tiếp đến, bà ấy vươn tay ngắt một bông Thược Dược đẹp nhất trong bình.
Sau một hồi ngắm nhìn bình hoa đã được cắm xong, bà ấy quay sang nói với vú Ngô: “Thôi, ném hết đi. Ta chẳng cần bình hoa này nữa.”
Vú Ngô đáp lời, rồi bà ấy vừa cười vừa dẫn nha hoàn mang bình hoa đi.
Chúng ta đều hiểu, mấy năm qua đại phu nhân không xử lý Triệu di nương là vì cha ta không xứng để bà ấy ra tay.
Nhưng bây giờ, bà ấy chẳng thèm nghĩ đến ông ta nữa.
10.
Những ngày sau đó trôi qua rất yên bình.
Đại phu nhân bắt đầu dạy ta nhiều hơn. Bà ấy đưa ta đi kiểm tra điền trang và cửa hàng, để ta tận mắt học hỏi cách bà ấy xử lý sản nghiệp to lớn kia.
Trong quá trình đi kiểm tra, ta quá đỗi kinh ngạc khi nhận ra mấy điền trang và cửa hàng này đều thuộc về đại phu nhân, chẳng có chút liên quan gì đến Thẩm phủ cả.
Điều này khiến người ta khiếp sợ cực độ. Dưới triều đại này, tài sản của nữ nhân trước khi xuất giá đều là của cha mẹ, dù sau khi xuất giá có làm chủ mẫu thì tất cả của cải đều bị công vào sổ sách, tài sản duy nhất thuộc về nữ nhân chỉ có của hồi môn mà thôi.
Vậy mà mười mấy năm nay đại phu nhân đã mở rộng của hồi môn thành sản nghiệp vĩ đại đến thế này…
Ta tái mặt, đại phu nhân ném cái nhìn khinh khỉnh về phía ta rồi cười trêu: “Nhìn dáng vẻ ngờ nghệch của con xem. Con thật sự cho rằng mười mấy năm qua ta chỉ ngồi không niệm Phật à?”
“Là nữ nhân, tiền và tình đều phải ngang nhau. Ta đã chẳng có tình mà còn không biết kiếm tiền thì khác nào phế vật chứ?”
Ta gật đầu rối rít phụ họa, lúc này đây, ta cũng rất bất ngờ khi nhận ra… Hình như đại phu nhân đã hoạt bát hơn nhiều rồi.
Lúc ta đi theo đại phu nhân học cách làm giàu thì Thẩm Uyển Dung bên kia cũng chẳng ngồi không.
Đám người học múa ra vào viện của Triệu di nương như thác chảy, tiếng sáo văng vẳng bên tai không ngớt.
Ta biết, Thẩm Uyển Dung đang học điệu múa Lục Yêu.
Nàng ta đã trở nên đẹp hơn với làn da trắng ngần và vóc dáng mỹ miều, học múa quanh năm giúp cơ thể nàng ta mềm mại như nước.
Mỗi lần tụ họp cùng các công tử, tiểu thư, mấy vị công tử đều rối rít khen ngợi, gọi nàng ta là đệ nhất mỹ nhân trong Kinh thành.
Bọn họ đã từng bị thu hút bởi kiếm thuật của ta, nhưng họ nhanh chóng nhận ra tính ta ương bướng khó gần, lại còn không chịu múa kiếm cho bọn họ xem nữa chứ.
Thẩm Uyển Dung thì không như vậy, nàng ta có nhiều tài nghệ đến thế cơ mà, lúc thì hát, lúc thì đàn tỳ bà, lúc thì nhảy múa.
Các công tử thở dài: “Uyển Dung cô nương đúng là tài mạo song toàn, chẳng biết ai may mắn có được nàng ấy.”
Thậm chí ta còn bị mang ra so sánh: “Đều là tiểu thư Thẩm phủ nhưng nhị tiểu thư chẳng thú vị gì cả, hơn nữa còn không có tài nghệ gì. Uổng công nàng ta đi theo đại phu nhân từ nhỏ, bây giờ so ra lại kém đại tiểu thư một chút.”
Mỗi khi nhắc tới chuyện này, Thẩm Uyển Dung lại đáp lời: “Muội muội ta có tài lắm đấy, nó tính toán rất giỏi. Đoán chừng sau này nó sẽ làm người tính toán sổ sách đó.”
Nói xong, nàng ta và đám công tử, tiểu thư xung quanh cùng cười xòa.
Chẳng bao lâu nữa, yến tiệc dành cho đám con quan trong Kinh thành sẽ được tổ chức, Thẩm Uyển Dung bắt đầu vênh váo đắc thắng trước mặt ta.
“Kiếp trước ta phải chép kinh trong Phật đường, còn ngươi thì được múa trong yến tiệc này. Tiểu hầu gia cũng yêu ngươi ngay từ giây phút ấy. Nhưng muội muội à, kiếp này người múa điệu Lục Yêu là ta, ngươi lấy gì để tranh với ta đây?”
Ta chẳng tức giận chút nào, chỉ cúi xuống tiếp tục gảy bàn tính.
“Tỷ tỷ, vì tình nghĩa tỷ muội nên ta cho tỷ lời khuyên cuối cùng – đừng múa Lục Yêu.”
Thẩm Uyển Dung hất hàm cười mỉa: “Quả nhiên là ngươi đang sợ.”
Nàng ta đắc chí rời đi, còn ta chỉ lẳng lặng nhún vai.
…